Áp lực lạm phát, doanh nghiệp cần làm gì để thích ứng và nâng cao năng lực cạnh tranh? |
Tọa đàm “Định hướng và giải pháp cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045”, do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tổ chức ngày 3/6 là minh chứng sống động cho sự dịch chuyển tư duy ấy trong giới học thuật, chuyên gia và nhà hoạch định chính sách.
![]() |
Tọa đàm “Định hướng và giải pháp cho tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045”. Ảnh: Tuấn Anh |
Chuyên gia kinh tế, TS. Lê Đăng Doanh nêu bật một điểm then chốt: "Không nước nào có thể phát triển nếu không đảm bảo an ninh lương thực và một nền nông nghiệp phát triển". Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và áp lực chuyển đổi xanh, vai trò của nông nghiệp càng trở nên chiến lược.
Nông nghiệp – nền tảng bị xem nhẹ
Tuy nhiên, nghịch lý là đầu tư vào giống cây trồng, vật nuôi, nghiên cứu nông nghiệp tại Việt Nam trong suốt một thập niên gần đây gần như không có thành tựu mới. Nông nghiệp không chỉ là sinh kế cho hàng triệu hộ gia đình mà còn là bệ đỡ trong các thời kỳ khủng hoảng.
Thế nhưng, đầu tư khoa học công nghệ cho lĩnh vực này lại thiếu nghiêm trọng. Việc sáp nhập các viện nghiên cứu làm trễ tiến độ và triệt tiêu khả năng đổi mới. Đây là “nút thắt” cần được gỡ bỏ nếu muốn nâng cao năng suất nông nghiệp và giải phóng lao động cho các khu vực kinh tế hiệu quả hơn.
Một vấn đề khác được TS. Lê Đăng Doanh và nhiều chuyên gia nhấn mạnh là sự trì trệ trong chuyển đổi kinh tế phi chính thức thành khu vực chính thức. Với khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, nhưng chưa đầy 800.000 doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, nền kinh tế Việt Nam đang tự giới hạn khả năng hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu.
“Không có chính sách khuyến khích và hỗ trợ phù hợp, những tiềm năng to lớn này sẽ tiếp tục bị bỏ phí”, TS. Lê Đăng Doanh nói.
![]() |
TS. Lê Đăng Doanh. Ảnh: Tuấn Anh |
Đồng thời, việc triển khai các hiệp định thương mại tự do cũng đòi hỏi sự kết nối chuỗi giá trị, mà điều này chỉ khả thi khi kinh tế phi chính thức được “chuyển hóa”. Đây là một phần của cải cách thể chế mà Việt Nam phải thực hiện nếu muốn tận dụng các cơ hội từ thương mại toàn cầu.
Chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành đưa ra một góc nhìn đáng chú ý. Đó là, để tăng trưởng bền vững cần có cách tiếp cận từ “kinh tế chính trị”, tức hiểu rõ động lực quyền lực, cơ chế thực thi và cách phân phối nguồn lực. Việc phân cấp, KPI, cải cách bộ máy mà không rõ vai trò người đứng đầu hay nguồn lực thực thi, sẽ dẫn đến tình trạng lúng túng như hiện nay ở nhiều địa phương.
“Kinh tế chính trị ở đây không chỉ là lý thuyết, mà là yêu cầu cấp thiết cho việc xây dựng các mô hình tăng trưởng mới, nơi chính sách không chỉ đúng về chiến lược, mà còn phải khả thi về thực tiễn, khả năng thi hành và quan trọng hơn là gắn với lợi ích quốc gia thực chất”, TS. Võ Trí Thành bày tỏ.
Các chuyên gia PGS, TS. Vũ Sỹ Cường (Học viện Tài chính) và TS. Lê Xuân Sang (Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới) cùng nhấn mạnh vai trò then chốt của “chính sách dựa trên bằng chứng”.
Thiếu dữ liệu, thiếu các nghiên cứu thực chứng, thiếu khảo sát vi mô tất cả đang khiến nhiều quyết sách mang tính “bốc thuốc” hơn là điều hành có cơ sở. Việc chuyển từ tư duy “chiến lược lớn” sang hành động cụ thể từng ngành là điều kiện tiên quyết để các nghị quyết không rơi vào “quên lãng”.
Hiệu quả quan trọng hơn số lượng
Trong câu chuyện tài khóa, đầu tư công hay bảo hiểm xã hội, PGS, TS. Vũ Sỹ Cường đánh giá việc thiếu lộ trình chi tiết khiến các mục tiêu lớn trở nên phi thực tế. Ví dụ, muốn ưu đãi doanh nghiệp nhỏ nhưng thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn ở mức 20%, không như “lời hứa” 17%.
![]() |
TS. Lê Xuân Sang. Ảnh: Tuấn Anh |
“Hay giải ngân cho khoa học công nghệ thì vướng bởi... cô thủ quỹ kho bạc. Câu chuyện không phải là chính sách sai, mà là tổ chức thực hiện bị nghẽn và không ai đứng ra giải trình trách nhiệm”, PGS.TS. Vũ Sỹ Cường bày tỏ.
Một điểm nhấn tại tọa đàm là chuyển từ “tăng vốn” sang “tăng hiệu quả sử dụng vốn”. TS. Lê Xuân Sang nêu rõ, tín dụng tăng nhanh nhưng tăng trưởng GDP không tương xứng, phản ánh hiệu quả đầu tư đang sụt giảm.
Đầu tư phải đi kèm với phân bổ thông minh và vào các lĩnh vực có hiệu quả cao, đơn cử như năng lượng tái tạo, điện gió ngoài khơi là một ví dụ tiêu biểu mà Việt Nam có tiềm năng hàng đầu khu vực.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng lưu ý đến hiện tượng "vốn chạy lòng vòng" khi Việt Nam thuộc top 3 thế giới về lợi nhuận từ tiền số, một lĩnh vực có nhiều rủi ro và dễ khiến dòng tiền chệch hướng khỏi sản xuất thật.
Kỳ vọng về kinh tế số đóng góp 30% GDP đến 2030 và 50% vào năm 2045 là rất lớn. Tuy nhiên, chuyên gia Võ Trí Thành cảnh báo kinh tế số tăng trưởng nhưng năng suất có tăng không?
Trung Quốc và Israel là hai nước có tỉ lệ kinh tế số rất cao, nhưng vẫn đối mặt với tăng trưởng chững lại. Vấn đề ở đây không phải ở tỉ lệ danh nghĩa, mà là hiệu quả thực sự trong tăng năng suất, giá trị gia tăng.
Để kinh tế số trở thành động lực thật sự, Việt Nam cần làm rõ đầu tư phần cứng – phần mềm truyền thống bao nhiêu? Sáng tạo mới bao nhiêu? Và đâu là sự thay đổi trong mô hình kinh doanh thật sự?
Khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 không phải là điều bất khả thi. Nhưng sẽ không đến nếu Việt Nam chỉ dừng lại ở các chiến lược “trên giấy”. Như các chuyên gia đã chỉ ra tại tọa đàm, nền kinh tế cần một sự thay đổi đồng bộ về tư duy chính sách, về cách tiếp cận, về thể chế và về năng lực thực thi.
Tư duy chính sách mới không chỉ cần đúng mà còn cần thực. Từ nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế số đến tài khóa… mỗi lĩnh vực đều cần được “phẫu thuật” chuyên sâu để nhận diện điểm nghẽn và thiết kế giải pháp phù hợp. Việt Nam sẽ chỉ đi tới năm 2045 bằng con đường tăng trưởng bền vững nếu chúng ta làm được điều đó.
![]() Bộ Tài chính đang xin ý kiến các bộ, ngành liên quan về đề xuất tiếp tục giảm 2% thuế giá trị gia tăng trong ... |