![]() |
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất nhưng cũng là thị trường mà Việt Nam chịu thâm hụt lớn nhất, với những ách tắc và trở ngại thường có - Ảnh minh họa: Thạch Thảo/Zing |
Hiện Hoa Kỳ và Trung Quốc là hai đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Trong khi luôn xuất siêu sang Hoa Kỳ, thì Việt Nam lại chịu thâm hụt thương mại lớn nhất với thị trường Trung Quốc.
Mua nhiều vượt trội hơn bán, triền miên hàng chục năm, nhưng không hẳn doanh nghiệp Việt luôn có vị thế "khách hàng là thượng đế".
7 tháng đã nhập siêu từ Trung Quốc hơn 41 tỷ USD
Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan, tháng 7/2022, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc đạt gần 3,94 tỷ USD, so với tháng 7/2021 giảm 1,78%. Cộng dồn 7 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc đạt hơn 30 tỷ USD, so với cùng kỳ năm 2021 tăng 5,11%.
Trong 7 tháng đầu năm nay, điện thoại các loại và linh kiện là nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 7,35 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 24,5% tỷ trọng xuất khẩu. Tiếp đến là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 6,65 tỷ USD, tăng 12,71%, chiếm 22,1 % tỷ trọng xuất khẩu. Đứng thứ ba là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng với 1,86 tỷ USD, tăng 32,86%.
Ngoài ra, còn 4 nhóm hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên gồm: Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện đạt gần 1,8 tỷ USD; xơ, sợi dệt hơn 1,44 tỷ USD; gỗ và sản phẩm 1,16 tỷ USD; cao su 1,12 tỷ USD. Nhìn chung các nhóm hàng xuất khẩu lớn đều có tăng trưởng khá, trừ nhóm hàng xơ, sợi dệt giảm khoảng 300 triệu USD so với cùng kỳ 2021.
Cũng trong thời gian này, những nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước, gồm: Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 59,2%; hàng thủy sản tăng 80,3%; thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 25,1%; đồ chơi dụng cụ thể thao và bộ phận tăng 49,2%; xăng dầu tăng 74,6%.
Trung Quốc cũng là thị trường tiêu thụ nhiều hàng nông sản của Việt Nam, trong đó đặc biệt là các mặt hàng thủy sản, rau quả; hạt điều; cà phê; chè; gạo; sắn và sản phẩm sắn; cao su, sản phẩm từ cao su…
Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, Trung Quốc đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ. Ngược lại, Việt Nam tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong khối ASEAN, và là đối tác thương mại lớn thứ 6 của Trung Quốc trên thế giới sau các nước Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức và Australia.
Chiều ngược lại, nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc trong tháng 7/2022, đạt 10,11 tỷ USD, so với tháng 7/2021 tăng 2,31%.
Cộng dồn 7 tháng nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 71,51 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong 7 tháng đầu năm nay, có đến 12 nhóm hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD. Trong đó có 2 nhóm hàng đạt hơn 10 tỷ USD gồm: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với 14,64 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 14,23 tỷ USD.
Như vậy, tính hết tháng 7, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 101,52 tỷ USD, tăng 11,05% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, Việt Nam nhập siêu hơn 41 tỷ USD từ Trung Quốc.
Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan cũng cho thấy nếu năm 2001, nhập siêu từ Trung Quốc chỉ là 210 triệu USD và đến năm 2011 đạt 13,46 tỷ USD, tăng 63,12% so với năm 2001. Như vậy, sau 10 năm nhập siêu từ Trung Quốc đã không được cải thiện mà ngày càng nới rộng thêm.
Đến năm 2021, nhập siêu từ Trung Quốc đạt 53,86 tỷ USD, tăng gấp 4 lần so với năm 2011, và chỉ mới 7 tháng đầu năm 2022, nhập siêu từ nước này đạt 41,51 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái.
Khó mở rộng đa dạng thị trường
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc tăng mạnh qua từng năm, nhưng do quy mô kim ngạch và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của Việt Nam lớn hơn xuất khẩu, nên ưu thế nghiêng về hàng hóa Trung Quốc, khiến khoảng cách nhập siêu của Việt Nam cứ liên tục được nới rộng.
Hiện, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất nhưng cũng là thị trường mà Việt Nam chịu thâm hụt thương mại lớn nhất trong số các nước Việt Nam có giao thương.
Theo ý kiến của một số doanh nghiệp làm ăn với Trung Quốc, thông thường nước nhập khẩu lớn sẽ giữ thế chủ động đối với nước xuất khẩu; với thị trường Trung Quốc Việt Nam là nước mua lớn hơn bán nhưng các doanh nghiệp Việt Nam không khai thác tốt được lợi thế “khách hàng là thượng đế” mà thường rơi vào thế bị bắt chẹt.
Nhiều năm qua, đã có những ý kiến đặt vấn đề đa dạng hóa thị trường cung cấp nguyên liệu, tuy nhiên đến nay sản xuất, kinh doanh trong nước vẫn phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, chủ yếu là nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất như máy móc, thiết bị, điện tử và linh kiện; nguyên phụ liệu dệt may, da giày; linh kiện, phụ tùng ô tô; phân bón các loại...
Chính vì vậy, trong hai năm xảy ra đại dịch với việc kiên quyết áp dụng chính sách “Zero COVID” của Chính phủ Trung Quốc, chuỗi cung ứng bị đứt gãy và gián đoạn khiến các công ty sản xuất ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Việc đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ hoạt động xuất khẩu lệ thuộc và thụ động ở thị trường Trung Quốc dẫn đến ngưng trệ sản xuất do thiếu nguyên phụ liệu, ảnh hưởng lớn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Song, cho đến nay, sau hàng chục năm Việt Nam vẫn khó giảm thiểu lệ thuộc đầu vào từ thị trường Trung Quốc; các "thượng đế" khách hàng vẫn phải sống chung với những bất ổn hoặc khó khăn từ thị trường này mà không đến được một sự đa dạng và mở rộng thực sự khác.