Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải |
Đó là nhận định mà Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải nêu tại Hội nghị trực tuyến với hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài do Bộ Công Thương tổ chức chiều 19/8.
Xuất nhập khẩu duy trì đà tăng
Báo cáo tại Hội nghị, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho biết, trong bối cảnh khó khăn của kinh tế và thương mại toàn cầu, xuất nhập khẩu trong 7 tháng đầu năm của Việt Nam đạt được những kết quả tích cực.
Cụ thể, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tiếp tục tăng cao với hơn 433,6 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 217,3 tỷ USD, tăng 16,6% (cùng kỳ tăng 30,9%), kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 216,3 tỷ USD, tăng 14% và cơ bản được kiểm soát tốt.
"Cán cân thương mại tiếp tục duy trì xuất siêu với con số trên 1 tỷ USD (cùng kỳ năm trước nhập siêu 3,3 tỷ USD), góp phần tích cực cho cán cân thanh toán, ổn định tỷ giá và ổn định các chỉ số kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế", Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh.
Đáng chú ý, xuất khẩu tăng đều ở các nhóm hàng, trong đó nhóm nhiên liệu và khoáng sản tăng cao nhất (48,7%); nhóm nông sản, thủy sản tăng 14,6% và công nghiệp chế biến chế tạo tăng 16,7%, tập trung ở các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh và khai thác tốt các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) như dệt may, da giày, thủy sản... và nhóm các mặt hàng tranh thủ được giá cao để đẩy mạnh xuất khẩu như: hóa chất, sản phẩm chất dẻo, phân bón...
Về các khu vực thị trường, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với khu vực thị trường châu Á - châu Phi (AP) đạt 289,4 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, xuất khẩu đạt 103,5 tỷ USD, tăng 13,5%, nhập khẩu đạt 185,9 tỷ USD, tăng 16,5%.
Xuất khẩu sang khu vực châu Đại Dương đạt 3,8 tỷ USD, tăng 34,6%. Trong đó, sang Australia đạt 3,4 tỷ USD, tăng 38,7%, sang New Zealand đạt 408 triệu USD, tăng 8,1%.
Xuất khẩu sang khu vực Đông Nam Á đạt 20,5 tỷ USD, tăng 26,5%. Kim ngạch xuất khẩu sang đa số các thị trường chính trong khu vực Đông Nam Á ghi nhận tăng trưởng ở mức hai con số trong nửa đầu năm 2022.
Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 30 tỷ USD, tăng 5,1%, sang Hàn Quốc đạt 14,2 tỷ USD, tăng 16,8%, sang Nhật Bản đạt 13,4 tỷ USD, tăng 13,4%, sang Arap Saudi đạt 380 triệu USD, tăng 69%.
Xuất khẩu sang khu vực châu Phi đạt gần 1,7 tỷ USD, tăng 2%. Hầu hết các thị trường khu vực châu Phi ghi nhận tăng trưởng, trừ Ghana. Cụ thể, Nam Phi (549 triệu USD, tăng 4,5%); Ai Cập (294 triệu USD, tăng 6,1%); Bờ Biển Ngà (213 triệu USD, tăng 36,4%); Ghana (164,6 triệu USD, giảm 42,3%).
Đối với khu vực thị trường châu Âu - châu Mỹ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 7 tháng đầu năm 2022 khu vực thị trường châu Âu - châu Mỹ đạt 136,7 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 110,1 tỷ USD, xuất siêu 83,5 tỷ USD.
Cụ thể, kim ngạch xuất nhập khẩu với khu vực thị trường châu Âu đạt 44 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2021 (bao gồm xuất khẩu đạt 32,5 tỷ USD, tăng 13,9%, nhập khẩu đạt 11,5 tỷ USD, giảm 4,6%).
Trong đó, xuất nhập khẩu với EU đạt 36,85 tỷ USD, tăng 13,4% (gồm xuất khẩu đạt 27,77 tỷ USD, tăng 21,5%, nhập khẩu đạt 9,08 tỷ USD, giảm 5,7%).
Kim ngạch xuất nhập khẩu với khu vực thị trường châu Mỹ đạt 92,8 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ (bao gồm xuất khẩu đạt 77,6 tỷ USD, tăng 23,1%, nhập khẩu đạt 15,1 tỷ USD, tăng 3,6%).
Trong đó, xuất nhập khẩu với Hoa Kỳ đạt 75,7 tỷ USD, tăng 20,2% (gồm xuất khẩu đạt 67 tỷ USD, tăng 24,2%, nhập khẩu đạt 8,7 tỷ USD, giảm 3,8%).
Còn nhiều thách thức
Nói về xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho rằng, cơ hội sẽ tới sẽ đến khi dịch COVID-19 cơ bản được khống chế trên phạm vi toàn cầu, tạo thuận lợi cho thúc đẩy phục hồi kinh tế, gia tăng xuất nhập khẩu.
"Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam đang khai thác hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới. Theo lộ trình tại các FTA, thuế nhập khẩu của các đối tác sẽ tiếp tục được xóa bỏ hoặc cắt giảm; thị phần hàng Việt Nam trong dung lượng nhập khẩu của các nước đối tác còn thấp, do vậy còn nhiều dư địa cho xuất khẩu của Việt Nam", Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải khẳng định.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng, tạo cơ sở để tăng nguồn hàng, đẩy mạnh xuất khẩu thời gian tới.
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế 2022-2023 với việc đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, là động lực để phát triển sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại của nước ta trong năm 2023.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cũng chỉ rõ, công tác xuất khẩu những tháng cuối năm vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể như, kinh tế toàn cầu tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, làm giảm sức cầu hàng hóa. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 được IMF hạ dự báo từ 3,6% đưa ra tháng 4/2022 xuống còn 2,9%.
Chưa kể, chiến sự tại Ukraina và việc Trung Quốc quyết liệt theo đuổi chiến lược “không COVID” khiến chuỗi cung ứng tiếp tục bị đứt gãy, đặt ra nhiều rủi ro về nguồn cung nguyên vật liệu, đảm bảo an ninh năng lượng.
Song song với đó, lạm phát tăng cao ở hầu hết các quốc gia (khu vực Eurozone là 8,6% hay tại Hoa Kỳ là 9,1%) và dự kiến sẽ còn ở mức cao làm tiêu dùng các mặt hàng không thiết yếu chịu ảnh hưởng, gây sụt giảm nhu cầu hàng hoá nhập khẩu từ các nước.
Giá một số nguyên liệu đầu vào tăng, giá cước vận tải mặc dù có dấu hiệu giảm nhưng vẫn ở mức cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đà phục hồi tăng trưởng kinh tế, tạo ra những khó khăn cho kinh tế và thương mại toàn cầu nói chung, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
5 giải pháp đề xuất
Trong bối cảnh khó khăn và thách thức đan xen, Bộ Công Thương đã đề ra 5 giải pháp đề xuất cho hoạt động xuất nhập khẩu những tháng cuối năm.
Thứ nhất, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phê duyệt ban hành Chiến lược Xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030.
Thứ hai, đẩy mạnh tận dụng các FTA. Cụ thể, sẽ theo dõi, bám sát việc các Bộ, ngành, địa phương triển khai các Kế hoạch thực thi các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã được ban hành theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển thị trường, xúc tiến thương mại. Cụ thể, sẽ tổ chức các Hội nghị giao ban định kỳ hàng tháng giữa các cơ quan chức năng của Bộ, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và các Bộ, ngành liên quan.
Thứ tư, tăng cường cơ chế cảnh báo sớm về các vụ kiện phòng vệ thương mại, hướng dẫn doanh nghiệp cách ứng phó với các vụ kiện.
Tăng cường áp dụng các biện pháp phòng chống gian lận thương mại, gian lận quy tắc xuất xứ để bảo vệ các ngành hàng xuất khẩu trước rủi ro của các vụ kiện "chống lẩn tránh" biện pháp phòng vệ thương mại.
Thứ năm, biên soạn và xuất bản các ấn phẩm thông tin đến doanh nghiệp về các Hiệp định FTA, các thị trường xuất khẩu. Phối hợp với các Bộ ngành, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong công tác mở cửa thị trường đối với các mặt hàng nông sản.