Chính phủ đánh giá nhiều điểm tích cực về “Big 4” ngân hàng
Những đánh giá của Chính phủ về “Big 4” ngân hàng thương mại nhà nước dựa trên kết quả hoạt động năm 2021, với các dữ liệu chi tiết và cụ thể.
Những đánh giá và dữ liệu đó được Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc thừa ủy quyền Thủ tướng ký báo cáo tổng thể về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2021, gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
Tình hình tài chính khối ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, bao gồm: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), thường được gọi là “Big 4”, được dành riêng phần riêng tại báo cáo này.
Theo báo cáo trên, về huy động vốn, đến cuối năm 2021, tổng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu (tổng nguồn vốn) của khối NHTM nhà nước đạt 6.378.380 tỷ đồng, tăng 645.934 tỷ đồng (11,27%) so với cuối năm 2020; cơ cấu nguồn vốn huy động chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ở nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư, phát hành giấy tờ có giá (huy động thị trường 1).
Cụ thể, các khoản nợ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đạt 69.519 tỷ đồng, giảm 38.079 tỷ đồng (35,39%) so cuối năm 2020.
Nguồn vốn huy động gồm: Tiền gửi của khách hàng đạt 5.222.393 tỷ đồng, tăng 567.872 tỷ đồng (12,2%) so với cuối năm 2020; Phát hành giấy tờ có giá đạt 234.154 tỷ đồng, tăng 49.429 tỷ đồng (26,76%) so cuối năm 2020.
Nguồn vốn huy động thị trường liên ngân hàng (thị trường 2) đạt 339.819 tỷ đồng, tăng 28.719 tỷ đồng (9,23%) so với cuối năm 2020.
Về sử dụng vốn, theo báo cáo, tiền gửi tại NHNN là 262.689 tỷ đồng, tăng 13.787 tỷ đồng (5,54%) so với cuối năm 2020. Tiền gửi và cho vay TCTD khác là 665.390 tỷ đồng, tăng 91.093 tỷ đồng (15,86%) so với cuối năm 2020.
Về cho vay khách hàng, trên cơ sở đảm bảo kiểm soát tốt chất lượng tín dụng và kiểm soát trong giới hạn được NHNN cho phép, hoạt động tín dụng của khối NHTM nhà nước đã có sự tăng trưởng năm 2021 so với năm 2020. Việc mở rộng và tăng trưởng tín dụng luôn đảm bảo an toàn, hiệu quả và kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực cho vay tiềm ẩn rủi ro.
Đến cuối năm 2021, dư nợ cho vay khách hàng đạt 4.626.301 tỷ đồng, tăng 436.003 tỷ đồng (10,41%) so với cuối năm 2020. Chất lượng tín dụng được đảm bảo, nợ xấu năm 2021 là 58.451 tỷ đồng, chiếm 1,23% so với tổng dư nợ cho vay khách hàng, tăng 970 tỷ đồng (1,69%) so cuối năm 2020.
Về hoạt động đầu tư, đến cuối năm 2021, tổng số dư các khoản chứng khoán kinh doanh đầu tư của khối NHTM nhà nước là 597.235 tỷ đồng (đã tính dự phòng rủi ro), tăng 87.478 tỷ đồng (17,16%) so với cuối năm 2020.
Chất lượng tài sản được Chính phủ đánh giá cụ thể.
Về nợ xấu cho vay, tổng nợ xấu năm 2021 là 58.451 tỷ đồng, tăng 970 tỷ đồng so với năm 2020 tương ứng với tỷ lệ tăng 1,69%. Tỷ lệ nợ xấu năm 2021 là 1,23% (giảm 9% so với năm 2020).
Chất lượng tín dụng, khối NHTM nhà nước tiếp tục chú trọng thực hiện quyết liệt các biện pháp để nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng một cách thực chất. Hoạt động thu hồi nợ xấu và các khoản nợ đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được kết quả tốt.
Cụ thể, nợ cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ: Đến cuối năm 2021, tổng số dư các khoản nợ được cơ cấu và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 09 và Quyết định 780 của khối NHTM nhà nước là 4.034,9 tỷ đồng, giảm 645,8 tỷ đồng so với năm 2020 (tương đương 13,8%), trong đó các ngân hàng giảm dần số dư các khoản nợ cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ (VietinBank giảm 227,24 tỷ đồng, Vietcombank giảm 247,3 tỷ đồng Agribank giảm 2.084 tỷ đồng).
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN (đã được sửa đổi, bổ sung) đến cuối năm 2021 là 255.600,08 tỷ đồng.
Kết quả xử lý nợ xấu, các NHTM nhà nước đạt kết quả khá tích cực trong xử lý nợ xấu trong bối cảnh dịch bệnh diễn ra phức tạp, góp phần kiểm soát nợ xấu của từng ngân hàng nói riêng và kiểm soát nợ xấu của toàn hệ thống nói chung.
Cụ thể, tổng số nợ xấu của các NHTM nhà nước được xử lý trong năm 2021 thông qua các hình thức: Khách hàng trả nợ, bán phát mại tài sản, trích lập dự phòng đạt 59.506,59 tỷ đồng, giảm 9.948,21 tỷ đồng (14,32%) so cuối năm 2020; trong đó, sử dụng dự phòng rủi ro 38.912,92 tỷ đồng, giảm 11.019,48 tỷ đồng (22,07%) so cuối năm 2020.
Về kết quả kinh doanh, tổng doanh thu đạt 452.238 tỷ đồng, tăng 9.513 tỷ đồng (2,15%) so với cùng kỳ năm 2020. Tổng chi phí đạt 380.116 tỷ đồng, giảm 1.434 tỷ đồng (0,38%) so với cùng kỳ năm 2020. Lợi nhuận trước thuế khối “Big 4” đạt 71.367 tỷ đồng, tăng 10.372 tỷ đồng (17%) so với cùng kỳ năm 2020; lợi nhuận sau thuế đạt 57.265 tỷ đồng, tăng 8.336 tỷ đồng (17,4%) so với cùng kỳ năm 2020.
Về hiệu quả sử dụng vốn, báo cáo cho biết, tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) hợp nhất thời điểm cuối năm 2021 đạt 16,05%, tăng 1,01% so với cùng kỳ năm 2020; tỷ suất lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA) hợp nhất thời điểm cuối năm 2020 đạt 0,9%, tăng 0,05% so với cùng kỳ năm 2020.
Về tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, theo báo cáo, các ngân hàng thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật thuế hiện hành. Đến cuối năm 2021, các “Big 4” đã nộp vào ngân sách nhà nước 22.516,4 tỷ đồng, trong đó: VietinBank 5.247,8 tỷ đồng, BIDV 5.169 tỷ đồng, VCB 7.517 tỷ đồng và Agribank 4.582,6 tỷ đồng.
Vốn đầu tư Nhà nước tiếp tục được bảo toàn và sinh lời. Vốn chủ sở hữu đạt 356.833 tỷ đồng, tăng 31.446 tỷ đồng (9,66%) so với cuối năm 2020, trong đó vốn điều lệ đạt 170.060 tỷ đồng, tăng 24.807 tỷ đồng (17,08%) so cuối năm 2020.
Báo cáo cũng cho biết các khoản nợ phải thu (ngoài các khoản phải thu từ hoạt động tín dụng) là 62.560,1 tỷ đồng, tăng 14.697,3 tỷ đồng so với năm 2020, trong đó: VietinBank có các khoản nợ phải thu là 32.812 tỷ đồng, tăng 11.585 tỷ đồng so với năm 2020 (tăng chủ yếu các khoản phải thu bên ngoài); BIDV có các khoản phải thu là 7.839 tỷ đồng, giảm 1.945 tỷ đồng so với năm 2020; Vietcombank có các khoản nợ phải thu (ngoài các khoản phải thu từ hoạt động tín dụng) là 14.140,8 tỷ đồng, tăng 7.969,6 tỷ đồng so với năm 2020 (tăng chủ yếu các khoản phải thu khác bên ngoài); Agribank có các khoản nợ phải thu là 7.768,3 tỷ đồng, giảm 2.912,3 tỷ đồng so cuối năm 2020.