Theo Sở Công Thương TP.HCM, hiện cả nước có 699.566 doanh nghiệp logistics và liên quan logistics, trong đó TP.HCM chiếm 31%, tương đương khoảng 216.865 doanh nghiệp. Sở Công Thương TP.HCM cho biết, hiện cả nước có 699.566 doanh nghiệp logistics và liên quan logistics, trong đó TP.HCM chiếm 31%, tương đương chừng 216.865 doanh nghiệp. Nhu cầu nhân sự ngành logistics mỗi năm tăng khoảng 7,5%. Riêng TP.HCM cần khoảng 63.000 lao động logistics/năm trong giai đoạn 2021 - 2025, trong đó cần hơn 8.400 lao động logistics chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, điểm nghẽn lớn nhất cản trở sự phát triển của ngành logistics nói chung, các hoạt động dịch vụ logistics nói riêng, chính là nguồn nhân lực và nhân lực chuyên nghiệp, chất lượng cao.
![]() |
Nhu cầu tuyển dụng người lao động ngành logistics ngày càng tăng cao |
Theo Sở Công Thương, để giải quyết bài toán nguồn nhân lực logistics, TP.HCM xác định hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời, là đẩy nhanh đào tạo ngắn hạn cho doanh nghiệp logistics vừa và nhỏ nhằm bổ sung lượng lao động đang thiếu hụt đồng thời tập trung đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu để có được đội ngũ và chất lượng nguồn nhân lực ngang bằng trình độ quốc tế. Ngoài ra, cần đẩy mạnh liên kết với các tỉnh để đào tạo lao động.
Ông Trương Tấn Lộc - Giám đốc Marketing Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn cho biết, chiến lược phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển không chỉ của một doanh nghiệp mà còn cho một địa phương và rộng hơn là cho một quốc gia. Với hoạt động khai thác cảng biển và dịch vụ Logistics của mình, hàng năm Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn cũng có nhu cầu tuyển dụng nhân sự để bổ sung cho đội ngũ làm việc tại cảng, kho, lực lượng làm việc tại các tàu, thuyền, sà lan, xe vận tải…
Nhu cầu tuyển dụng hàng năm trung bình hơn 100 nhân sự, lĩnh vực làm việc đa dạng phù hợp với dịch vụ đa lĩnh vực của Tân Cảng Sài Gòn. Theo ông Lộc, để giữ chân người lao động, Tân Cảng Sài Gòn dành nhiều chế độ đãi ngộ tốt cho cán bộ, công nhân viên như: Quan tâm đến đời sống vật chất tinh thần của người lao động, thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, phát hiện kịp thời những nhân sự chất lượng cao, có tiềm năng để định hướng phát triển lộ trình của họ mà ở Tân Cảng Sài Gòn gọi là “Lộ trình công danh” để giúp từng người trong đơn vị định hướng được Lộ trình phát triển của mình trong 1 năm, 3 năm hoặc nhiều hơn.
Cần chiến lược bài bản để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành logistics
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu về chất lượng, trình độ chuyên môn và kỹ năng của nguồn nhân lực logistics ngày càng cần phải được nâng cao, đáp ứng với yêu cầu của thời đại, đặc biệt là nguồn nhân lực có kiến thức chuyên môn sâu về ngành, các kỹ năng ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng giao tiếp, marketing, đàm phán, triển khai,...
Các số liệu nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nguồn nhân lực logistics của Việt Nam không những thiếu về số lượng mà còn yếu về chất lượng, điều này rất không hợp lý với một ngành dịch vụ có quy mô lên đến 22 tỷ USD, chiếm 20,9% GDP của cả nước, tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn ở mức cao trong khu vực. Nguồn nhân lực chính đang trở thành vấn đề nan giải nhất của ngành logistic hiện nay. Sự khó khăn về nguồn nhân lực của ngành càng được nhân lên khi Việt Nam gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN và tham gia hàng loạt các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Theo các chuyên gia, ngay từ bây giờ cần phải có định hướng phát triển nguồn nhân lực cho ngành logistics nhằm thích ứng trước những biến động và rủi ro. Đồng thời, cần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về sự cấp thiết của việc xây dựng chiến lược nguồn nhân lực, để từ đó hướng đến sự phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành logistics Việt Nam.
Theo PGS, TS Võ Thị Ngọc Thúy, Hiệu trưởng trường Đại học Hoa Sen, có 4 điểm nghẽn lớn ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực cho ngành logistics. Đó là bất cập về cung - cầu; nguồn nhân lực và chuyển đổi số; năng suất lao động thấp hơn các nước trong khu vực; nhận thức của xã hội về nghề.
Để khắc phục tình trạng này, nhà trường và doanh nghiệp phải chung tay đào tạo theo dạng thực làm - thực học. Cụ thể, nhà trường đào tạo lý thuyết, doanh nghiệp đào tạo thực hành - thực làm. “Phải làm sao để nhà trường và doanh nghiệp chung một nhà, tránh tình trạng sinh viên ra trường nhưng khi vào doanh nghiệp thì phải đào tạo lại”, bà Thúy kiến nghị.