![]() |
Phiên thảo luận tại hội trường Quốc hội về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng. Ảnh: Quốc hội |
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng được chú trọng với nhiều quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm và nợ xấu, bao gồm việc công nhận quyền thu giữ tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng, cho phép kê biên tài sản ngay cả khi đang là vật chứng trong vụ án, và cơ chế hoàn trả tài sản là tang vật hành chính hoặc hình sự khi không còn nhu cầu xử lý.
Cần điều kiện cụ thể khi áp dụng lãi suất 0%
Trong đó, một nội dung thu hút sự quan tâm đặc biệt của các đại biểu là quy định về lãi suất cho vay đặc biệt 0%/năm.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông (Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Bình Thuận) nhìn nhận, đây là một chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, thể hiện vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc giữ vững an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng, đặc biệt với các tổ chức tín dụng gặp khó khăn.
Tuy nhiên, ông cảnh báo việc áp dụng mức lãi suất 0% mà không có điều kiện cụ thể có thể dẫn đến lạm dụng, tạo rủi ro, làm méo mó môi trường cạnh tranh và tăng gánh nặng cho ngân sách. Đại biểu đề nghị quy định rõ ràng rằng lãi suất 0% chỉ dành cho tổ chức tín dụng thuộc diện kiểm soát đặc biệt, tái cơ cấu bắt buộc hoặc có nguy cơ gây ảnh hưởng hệ thống. Đồng thời, cần có cơ chế giám sát, công khai và đánh giá hiệu quả của khoản vay này.
Nhiều ý kiến băn khoăn về rủi ro và cơ chế giám sát
Đại biểu Nguyễn Thị Sửu (Đoàn Đại biểu quốc hội Thành phố Huế) cũng kiến nghị phải xác định rõ đối tượng và điều kiện áp dụng để ngăn chặn tình trạng lạm dụng, tránh việc các tổ chức tín dụng cố tình kéo dài tình trạng tái cơ cấu nhằm hưởng lợi từ lãi suất 0%, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Tương tự, đại biểu Nguyễn Hải Nam (Đoàn Đại biểu quốc hội Thành phố Huế) tuy nhất trí với việc phân cấp thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt lãi suất 0% từ Thủ tướng sang Ngân hàng Nhà nước, nhưng cũng yêu cầu phải có quy định chi tiết về điều kiện, cơ chế, quy trình, thủ tục, hạn mức vay và trách nhiệm quản lý khoản vay.
Đại biểu bày tỏ lo ngại về nhu cầu vay đặc biệt có thể không nhỏ và luôn tiềm ẩn rủi ro, nếu quy mô cho vay lớn sẽ tác động đến dư địa điều hành chính sách tiền tệ và nguồn vốn cho nền kinh tế, từ đó đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức khi phê duyệt các khoản vay này.
Đại biểu Trần Thị Thu Đông (Đoàn Đại biểu quốc hội Bạc Liêu) ghi nhận ưu điểm của quy định là cho phép Ngân hàng Nhà nước ra quyết định nhanh chóng trong các tình huống rủi ro hệ thống hoặc khủng hoảng thanh khoản. Dù vậy, bà cũng chỉ ra nhược điểm khi việc cho vay không có tài sản bảo đảm với lãi suất 0% lại thiếu cơ chế kiểm soát và minh bạch về rủi ro.
Do đó, đại biểu đề nghị Ngân hàng Nhà nước phải báo cáo định kỳ với Chính phủ và Quốc hội về các khoản vay đặc biệt, bao gồm đối tượng, số tiền, thời hạn và kết quả, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của việc quy định rõ tiêu chí để tránh lạm dụng cứu các tổ chức tín dụng yếu kém.
Cùng mối quan tâm, đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn Đại biểu quốc hội Vĩnh Phúc) đề nghị làm rõ tiêu chí xem xét gia hạn khoản vay, yêu cầu Ngân hàng Nhà nước có văn bản quy định cụ thể và hướng dẫn chi tiết, gửi kèm hồ sơ dự án Luật để đại biểu nghiên cứu.
Từ một góc độ khác, đại biểu Nguyễn Quang Huân (Đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Bình Dương) thông tin rằng Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 37/2024/TT-NHNN quy định chi tiết về vấn đề này và bày tỏ sự tán thành trao quyền mạnh mẽ cho Ngân hàng Nhà nước, nhưng đề xuất Ngân hàng Nhà nước phải báo cáo Chính phủ tại phiên họp gần nhất sau khi quyết định cho vay.
Ngân hàng Nhà nước: Yêu cầu thực tiễn và các biện pháp kiểm soát
Giải trình trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng làm rõ rằng Luật Các tổ chức tín dụng 2017 đã quy định Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt, nhưng Luật Các tổ chức tín dụng 2024 lại chuyển thẩm quyền này sang Thủ tướng.
![]() |
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng giải trình các vấn đề đại biểu quan tâm. Ảnh: Quốc hội |
Đề xuất chuyển thẩm quyền trở lại cho Ngân hàng Nhà nước trong dự thảo Luật sửa đổi lần này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cần xử lý nhanh chóng các biến động, đặc biệt là nguy cơ rút tiền hàng loạt có thể xảy ra bất cứ lúc nào do tác động của công nghệ. Thống đốc khẳng định việc cho vay đặc biệt lãi suất 0% không phải là biện pháp thường xuyên mà chỉ áp dụng trong những trường hợp cực kỳ đặc biệt.
Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã có nhiều quy định về phát hiện sớm và can thiệp sớm từ xa. Các tổ chức tín dụng “có vấn đề” sẽ bị đưa vào diện can thiệp sớm và nếu thiếu thanh khoản vẫn có thể được vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước nhưng phải chịu lãi suất.
Bà Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh, việc vay đặc biệt lãi suất 0% chỉ dành cho trường hợp tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt, bởi tình trạng này có nguy cơ lây lan toàn hệ thống. Việc quy định điều kiện cụ thể cho loại hình vay này là rất khó khăn do mỗi tổ chức tín dụng có thể đối mặt với tình huống khác nhau, thậm chí các ngân hàng hoạt động có lãi vẫn có thể gặp sự cố rút tiền hàng loạt do tin đồn hoặc sự cố công nghệ, đòi hỏi phản ứng cực nhanh.
Đối với lo ngại về cho vay đặc biệt không có tài sản đảm bảo, Thống đốc cho biết đây là trường hợp chỉ xảy ra khi tổ chức tín dụng đã thực sự cạn kiệt tài sản đảm bảo. Ngân hàng Nhà nước luôn ưu tiên yêu cầu tài sản đảm bảo, nhất là các tài sản có tính thanh khoản cao như hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo các khoản vay hoặc trái phiếu Chính phủ do tổ chức tín dụng đó nắm giữ.
Phiên thảo luận sôi nổi cho thấy rõ thách thức trong việc dung hòa giữa nhu cầu trang bị cho Ngân hàng Nhà nước một công cụ đủ mạnh và linh hoạt để ứng phó với khủng hoảng, với đòi hỏi về các tiêu chí minh bạch, cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm bảo vệ nguồn lực quốc gia.
Tìm được lời giải cho bài toán này thông qua một hành lang pháp lý vừa chi tiết vừa linh hoạt, đảm bảo tính kịp thời nhưng vẫn kiểm soát được rủi ro, sẽ là yếu tố then chốt. Niềm tin của thị trường và người dân sẽ được củng cố khi chính sách này được triển khai một cách công tâm, hiệu quả, vì mục tiêu cao nhất là sự ổn định của nền kinh tế.