WB: Kinh tế Việt Nam phục hồi, nhưng rủi ro đã tăng cao
Ảnh: GettyImages |
Hôm nay (11/3), Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2022.
Một điểm mới của báo cáo này là nhận định của WB rằng "giảm thuế bảo vệ môi trường không phải là chính sách đúng đắn để hạ nhiệt giá xăng dầu", song còn hạn chế các phân tích và dẫn giải cụ thể.
Về tổng thể, báo cáo điểm lại những diễn biến chính 2 tháng đầu năm, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố rủi ro đã tăng cao ở diễn biến COVID-19 và bối cảnh xung đột Nga - Ukraina.
BizLIVE giới thiệu những nội dung chính của báo cáo.
Số ca mắc COVID-19 mới tăng đột biến, lên đến hơn 100.000 ca mỗi ngày trong nửa cuối tháng 2 sau kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán, khiến các chỉ số di chuyển chính giảm
Dữ liệu hiện có cho thấy các hoạt động kinh tế trong nước tiếp tục phục hồi, với sản xuất công nghiệp tăng 8,5% (so với cùng kỳ năm trước) và tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng 3,1% (so với cùng kỳ năm trước) mặc dù ảnh hưởng của xu hướng số ca nhiễm COVID-19 tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây đến cung lao động, sản xuất và tiêu dùng có thể chưa được phản ánh đầy đủ.
Cán cân thương mại hàng hóa xấu đi, chuyển từ thặng dư 1,4 tỷ USD trong tháng 1 sang thâm hụt 2,0 tỷ USD trong tháng 2 do nhập khẩu tăng nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu. So với một năm trước, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký giảm, trong khi giải ngân vốn FDI tăng tháng thứ 3 liên tiếp.
Mặc dù giá năng lượng tăng nhưng lạm phát tiếp tục được kiềm chế nhờ giá lương thực, thực phẩm tương đối ổn định và nhu cầu trong nước còn yếu. Nhu cầu tín dụng vẫn cao sau Tết Nguyên Đán, khiến lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng giữ ở mức 2,56% vào thời điểm cuối tháng 2, so với mức dưới 1% cuối năm 2021.
Cân đối ngân sách thặng dư 1,1 tỷ USD trong tháng 2 do kết quả thu ngân sách tốt. Chi ngân sách tăng nhờ cải thiện tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.
Mặc dù nền kinh tế tiếp tục cho thấy khả năng chống chịu và đang phục hồi, nhưng rủi ro tiêu cực đã tăng cao do các ca nhiễm Omicron đang quét qua cả nước và xung đột Nga-Ukraine gia tăng tính bất định về phục hồi kinh tế toàn cầu, tạo ra những căng thẳng mới đối với chuỗi cung ứng toàn cầu và tăng áp lực lạm phát. Giá hàng hóa thế giới đã tăng mạnh và có thể còn tiếp tục tăng trong ngắn hạn. Tiếp tục triển khai tiêm liều vắc-xin tăng cường và ban hành hướng dẫn y tế đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát làn sóng Omicron.
Do tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc - những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam - có thể bị ảnh hưởng, cơ quan chức năng nên khuyến khích doanh nghiệp xuất khẩu tìm kiếm thị trường mới và đổi mới sáng tạo sang những sản phẩm mới thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện có để tăng cường khả năng chống chịu của xuất khẩu.
Mặc dù cần theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả trong nước, nhưng giảm thuế bảo vệ môi trường không phải là chính sách đúng đắn để hạ nhiệt giá xăng dầu.
Số ca mắc COVID-19 mới tăng vọt khi người dân đi làm trở lại sau Tết Nguyên Đán
Số ca mắc mới tăng mạnh, lên đến hơn 100.000 ca mỗi ngày vào cuối tháng 2. Số ca tử vong mới cũng tăng lên, mặc dù tỷ lệ tử vong, là tỷ số giữa tổng số ca tử vong và tổng số ca nhiễm, tiếp tục giảm. Tính đến ngày 7/3, số ca nhiễm tính từ đầu đại dịch đã chạm mốc 4,6 triệu ca, và số ca tử vong lên đến 40.900 ca.
Gần 79% dân số đã được tiêm vắc-xin COVID-19 đầy đủ và 41,2% đã được tiêm liều tăng cường. Mức độ di chuyển tăng sau Tết Nguyên Đán do người dân trở lại làm việc. Tuy nhiên, chỉ số này đã bị ảnh hưởng bởi số ca nhiễm tăng nhanh chóng từ nửa cuối tháng 2.
Nhiều người phải tự cách ly ở nhà hơn, trong khi những người khác có thể đã trở nên dè dặt hơn trong việc giao tiếp xã hội và đi lại bằng phương tiện giao thông công cộng.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng tốc, nhưng có thể chưa phản ánh hết ảnh hưởng của làn sóng lây nhiễm COVID-19 mới đến sản xuất
Tốc độ tăng trưởng chỉ số sản xuất công nghiệp tăng lên 8,5% (so với cùng kỳ năm trước) từ 2,8% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 1, cho thấy sự cải thiện chung trong hoạt động công nghiệp chế biến, chế tạo. Đặc biệt, sau khi giảm vào tháng 1, sản xuất máy tính, điện tử và sản phẩm quang học đã phục hồi trở lại, tăng 9,1% (so với cùng kỳ năm trước).
Sản xuất trang phục duy trì kết quả tốt với mức tăng trưởng 24,7% (so với cùng kỳ năm trước). Chỉ số PMI ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bật tăng từ 53,7 trong tháng 1 lên 54,3 vào tháng 2, mức cao nhất trong 10 tháng gần đây, cho thấy điều kiện kinh doanh trong nước tiếp tục được cải thiện. Tuy nhiên, tác động của làn sóng lây nhiễm COVID-19 nhanh chóng đối với sản xuất có thể chưa được phản ánh đầy đủ trong dữ liệu hiện có vì cả chỉ số sản xuất công nghiệp hàng tháng và chỉ số PMI đều dựa trên dữ liệu được thu thập đến giữa tháng 2.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tiếp tục phục hồi
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 3,1% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 2, cao hơn tốc độ tăng trưởng trong tháng 1. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng tiếp tục phục hồi, tăng 5,9% (so với cùng kỳ năm trước), lần tăng đầu tiên kể từ tháng 5/2021, nhờ doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng trưởng mạnh (12,6% so với cùng kỳ năm trước).
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 2,4% (so với cùng kỳ năm trước). Giống như đối với sản xuất công nghiệp, con số ước tính của doanh thu bán lẻ có thể chưa nắm bắt đầy đủ tác động của đợt gia tăng số ca nhiễm COVID-19 và sự thay đổi trong hành vi người tiêu dùng trong nửa cuối tháng 2, như đã thấy ở xu hướng giảm trong mức độ di chuyển, đặc biệt là đến các địa điểm bán lẻ và giải trí.
Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tăng trưởng lần lượt 15,5% và 22,3% (so với cùng kỳ năm trước), cao hơn tốc độ tăng trưởng trong tháng 1. Do nhập khẩu tăng nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu, cán cân thương mại xấu đi, chuyển từ thặng dư 1,4 tỷ USD trong tháng 1 sang thâm hụt 2,0 tỷ USD trong tháng 2.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhờ xuất khẩu điện thoại, máy tính và điện tử, và máy móc tăng 6,2% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 2, so với mức giảm 8,6% trong tháng 1. Xuất khẩu dệt may vẫn được duy trì mạnh mẽ, tăng trưởng 25,8% (so với cùng kỳ năm trước).
Tăng nhập khẩu một phần phản ánh tăng trưởngnhanh hơn của nhập khẩu linh kiện điện thoại, máy tính và điện tử, với tốc độ bật tăng từ 14,9% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 1 lên 32,3% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 2. Kim ngạch nhập khẩu xăng dầu cũng tăng 146,8% (so với cùng kỳ năm trước), phản ánh rõ xu hướng tăng của giá dầu.
Theo đối tác thương mại, xuất khẩu sang Hoa Kỳ vẫn tăng trưởng mạnh với tốc độ 14,6% (so với cùng kỳ năm trước) trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc phục hồi, tăng 19,5% (so với cùng kỳ năm trước) sau khi giảm 15,2% trong tháng 1.
Vốn FDI đăng ký giảm trong khi vốn FDI thực hiện tiếp tục phục hồi mạnh mẽ
Việt Nam đã thu hút 2,9 tỷ USD vốn FDI đăng ký trong tháng 2, thấp hơn 15,9% so với một năm trước. Hầu hết vốn đăng ký đến từ các doanh nghiệp đang hoạt động có kế hoạch mở rộng cơ sở sản xuất. Số vốn này bao gồm 2 dự án lớn trong lĩnh vực bất động sản và điện tử, mỗi dự án trị giá hơn 900 triệu USD.
Vốn giải ngân của các dự án FDI đã được phê duyệt tăng 7,9% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 2, tháng tăng trưởng thứ ba liên tiếp.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 1,4% (so với cùng kỳnăm trước), mức tăng thấp nhất kể từ tháng 4/2021. Giá xăng dầu tăng 5,8% so với tháng trước và 47,1% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục góp phần làm tăng chi phí giao thông, và do đó, làm tăng giá tiêu dùng. Ngược lại, giá lương thực, thực phẩm (LT-TP) tương đối ổn định so với một năm trước nhờ chuỗi cung ứng trong nước được duy trì tốt.
Lạm phát cơ bản, không bao gồm lương thực, thực phẩm, năng lượng và các mặt hàng do Nhà nước quản lý giá, chỉ tăng 0,7% (so với cùng kỳ năm trước), tương đương tỷ lệ ghi nhận trong 2 tháng trước đó, phản ánh nhu cầu trong nước phục hồi yếu.
Nhu cầu tín dụng vẫn cao sau Tết Nguyên Đán
Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng 15,7% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 2, giảm nhẹ so với 16,3% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 1. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này cao hơn so với năm 2021, cho thấy nhu cầu tín dụng vẫn ở mức cao.
Do đó, lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng được duy trì ở mức 2,56% tại thời điểm cuối tháng 2, so với mức 2,42% cuối tháng 1 và tăng 1,8 điểm phần trăm so với cuối tháng 12/2021 đầu năm 2022.
Thu ngân sách tháng 2 tăng 5,3% (so với cùng kỳ năm trước) trong khi chi ngân sách tăng 6,1% (so với cùng kỳ năm trước) nhờ cải thiện tình hình thực hiện chương trình đầu tư công. Tổng thu ngân sách của Chính phủ trong hai tháng đầu năm đã đạt 22,9% dự toán, cho thấy tác động của các chính sách gia hạn, miễn, giảm thuế trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế chưa được thể hiện rõ trong kết quả thu ngân sách.
Chính phủ cũng đã chi 12,8% kế hoạch được giao. Giải ngân vốn đầu tư công được cải thiện đáng kể, đạt 8,6% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 5,1% cùng kỳ năm trước.
Kho bạc Nhà nước đã phát hành 412 triệu USD trái phiếu Chính phủ bằng nội tệ trong tháng 2, nâng tổng giá trị trái phiếu phát hành lên 1,4 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm, tương đương 8,1% kế hoạch. Tất cả trái phiếu đã phát hành đều có kỳ hạn dài (ít nhất 10 năm). Thanh khoản dồi dào tiếp tục giữ chi phí huy động vốn ở mức thấp, với lợi suất trái phiếu Kho bạc kỳ hạn 10 năm trên thị trường sơ cấp ổn định ở mức 2,12% vào cuối tháng 2.