Chuyên gia chỉ giải pháp giúp doanh nghiệp cải thiện năng lực tài chính
TP.HCM sắp đấu giá lại 4 lô đất “vàng” ở Thủ Thiêm bị doanh nghiệp bỏ cọc |
Hội thảo “Tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp”. |
Tín chấp tăng thấp là vấn đề được cơ quan quản lý, Hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế và cả các TCTD tập trung phân tích. Theo TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, khó khăn đầu tiên doanh nghiệp vướng mắc là vấn đề pháp lý, môi trường kinh doanh.
TS Lực chỉ ra, một phần là do quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa đủ rõ ràng, nhưng chủ yếu là do nỗi lo sợ trách nhiệm, sợ sai, chưa vì cái chung trong khi năng lực, trình độ của công viên chức còn hạn chế và khâu phối hợp chưa tốt. Đây là thách thức, bất cập lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính làm suy giảm niềm tin.
Thứ hai, vấn đề tài chính qua 3 khía cạnh. Đó là nghĩa vụ thuế và phí đáo hạn; nghĩa vụ nợ phải trả cho đối tác, khách hàng, nợ đọng lẫn nhau; tiếp cận vốn.
TS Cấn Văn Lực cho rằng, kênh huy động vốn từ thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn bị thu hẹp (do thị trường cổ phiếu phục hồi chậm, thị trường TPDN tiếp tục trầm lắng trong bối cảnh nhiều yếu tố bất lợi từ cuối năm 2022 vẫn chưa kết thúc). Hết 6 tháng đầu năm 2023, mới có gần 49 nghìn tỷ đồng TPDN được phát hành, giảm 73,3% so với cùng kỳ năm 2022.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV. |
Vị chuyên gia cũng đưa ra 4 nguyên nhân khiến tín dụng ngân hàng tăng thấp: Bối cảnh chung rủi ro, thách thức hơn, nợ xấu gia tăng khiến các tổ chức tài chính trên thế giới và cả Việt Nam trở nên thận trọng hơn; khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của bên vay ở mức thấp hơn (do năng lực tài chính suy giảm, giá trị tài sản bảo đảm (nhất là BĐS) bị giảm; năng lực hấp thụ vốn, nhu cầu vay vốn của cả doanh nghiệp và hộ gia đình ở mức thấp (do thiếu đơn hàng, hoạt động SXKD bị thu hẹp, e ngại tình trạng trì trệ ở một bộ phận công viên chức); một số lĩnh vực lâu nay dựa nhiều vào vốn ngân hàng hay TPDN đang suy giảm như BĐS, công nghiệp, dịch vụ khác và vay tiêu dùng.
Về khó khăn thứ ba doanh nghiệp đang gặp phải đó là nghẽn cả đầu vào lẫn đầu ra. Chi phí đầu vào, bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí sản xuất, logistics, lãi vay đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, trong khi đầu ra bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, một số lĩnh vực chỉ mới có tín hiệu phục hồi đơn hàng từ đầu quý III/2023.
Thứ tư là vấn đề lao động. Thị trường lao động thay đổi nhiều sau dịch bệnh, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa theo kịp, vẫn xảy ra tình trạng mất cân đối cung - cầu (chỗ thiếu, chỗ thừa), việc làm, thu nhập bị giảm, chưa kể thái độ làm việc đôi khi còn cầm chừng…v.v.
Để tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, TS Cấn Văn Lực nhận định, Chính phủ, Bộ, ngành và NHNN cần ưu tiên thực hiện đồng bộ 9 nhóm giải pháp hỗ trợ cả phía cung và phía cầu như sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01; các chỉ thị, nghị quyết, nghị định gần đây của Quốc Hội, Chính phủ; tổ chức thực hiện đúng thời hạn và tốt những quyết sách mà Quốc hội, Chính phủ đã ban hành như đã nêu trên; tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp; tiếp tục bình ổn, lành mạnh hóa các thị trường (chứng khoán, TPDN, BĐS, xăng dầu, thanh khoản ngân hàng…) nhằm củng cố niềm tin nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân.
Với chính sách tài khóa, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện hoàn thuế VAT, các chính sách giãn hoãn thuế, phí, tiền thuê đất, giảm 2% thuế GTGT; xem xét giảm tỷ lệ đóng BHXH cho doanh nghiệp; xem xét chuyển phần còn lại của Chương trình phục hồi (nhất là cấu phần hỗ trợ tiền thuê nhà, hỗ trợ 2% lãi suất…) sang Quỹ phát triển nhà ở xã hội (mới có thể cho vay lãi suất thấp và nguồn vốn mồi bền vững); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV và các quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV tại các địa phương...v.v. Đặc biệt, mọi quyết sách đều cần phân giao trách nhiệm, thời hạn cụ thể, có chế tài nghiêm nếu không thực hiện.
Thứ hai, Bộ KHĐT chủ trì phối hợp với các Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh triển khai Chương trình phục hồi 2022-2023, các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giải phóng mặt bằng, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng CNTT trong giải quyết thủ tục về đầu tư công; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai; chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế (nhất là các DNNN, dự án yếu kém, TCTD yếu kém…) nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó cần chú trọng các động lực tăng trưởng: (i) quyết tâm đẩy mạnh giải ngân đầu tư công bởi theo đánh giá của Viện ĐT&NC BIDV, nếu giải ngân được 95% tổng vốn 713 nghìn tỷ đồng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước có thể tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; (ii) kích cầu tiêu dùng nội địa, theo tính toán của chúng tôi, tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; (iii) quan tâm thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và Tp. HCM (hai TP này đóng góp 39% tăng trưởng GDP năm 2019)…v.v.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và các thị trường tài chính, đất đai, xây dựng, BĐS…; nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng. Theo đó, duy trì chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng khâu thực thi; chính sách tiền tệ chuyển trạng thái từ “chắc chắn” sang “nới lỏng, linh hoạt” cùng với việc đẩy mạnh cơ cấu lại các TCTD gắn voiowis xử lý nợ xấu, đảm bảo an toàn và ổn định hệ thống.
Thứ năm, cần có đánh giá đúng và trúng thực trạng tình hình doanh nghiệp; từ đó tháo gỡ kịp thời và chính xác những tồn tại, vướng mắc đã và đang được chỉ ra; quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực từ suy giảm xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng bằng cách: Khai thác tốt hơn các FTAs đã ký kết, thực hiện hiệu quả hơn công tác xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, đa dạng hóa hàng hóa và thị trường xuất khẩu, đầu tư; tiếp tục đẩy mạnh cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, thủ tục hành chính, nhất là bộ máy thực thi công vụ.
Triển khai hiệu quả các biện pháp khuyến mại, kích cầu thương mại và du lịch trong nước; rà soát, cập nhật và điều chỉnh cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực - là các yếu tố cơ bản khi đưa ra các quyết định kinh doanh của nhà đầu tư; quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với doanh nghiệp hiện nay, nhất là về vấn đề pháp lý và tiếp cận thị trường (nhất là đất đai, điện năng, PCCC, đăng kiểm; visa cho du khách và chuyên gia; hoàn thuế GTGT…); những vụ việc vi phạm về chứng khoán, bất động sản…cần sớm được giải quyết dứt điểm, củng cố niềm tin của người dân và doanh nghiệp
Thứ sáu, gia tăng nguồn lực cho các TCTD để có thể hỗ trợ nền kinh tế. Để tăng nguồn lực cho các TCTD, Quốc Hội, Chính phủ tiếp tục cho các NHTMNN giữ lại lợi nhuận Nhà nước hàng năm để tăng vốn, tạo điều kiện các TCTD dẫn dắt, tham gia tái cơ cấu các TCTD, cũng như tiết giảm chi phí, có điều kiện triển khai gói hỗ trợ và giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Thứ bảy, đồng bộ phát triển thị trường tài chính cân bằng hơn, theo đó, cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN (cũng là tăng khả năng huy động vốn trung – dài hạn của doanh nghiệp), giảm bớt áp lực tín dụng trung dài hạn cho hệ thống ngân hàng; có đề án, chương trình và giải pháp cụ thể về việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam (từ “cận biên” lên “mới nổi”).
Thứ tám, đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện thể chế (nhất là sửa đổi luật đất đai, luật nhà ở, luật kinh doanh BĐS, luật các TCTD….); cùng với việc tháo gỡ rào cản, chú trọng khâu thực thi và phối hợp chính sách; quan tâm xây dựng thể chế chính sách cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, vừa tận dụng cơ hội, vừa hỗ trợ vượt qua khó khăn, thách thức. Xây dựng chiến lược, giải pháp cụ thể để tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia kinh tế cũng đưa ra giải pháp ưu tiên đối với doanh nghiệp và các tổ chức tài chính: Trước hết, doanh nghiệp cần quyết tâm cơ cấu lại, giảm chi phí; nâng cao hiệu quả, trách nhiệm sử dụng vốn, minh bạch (theo đúng kế hoạch, hồ sơ phát hành công cụ nợ hoặc vay vốn) và giải quyết đúng các cam kết trả nợ (chấp nhận bán tài sản, nếu cần), chủ động có phương án, giải pháp cụ thể đối với TPDN đáo hạn còn lại trong năm 2023 và 2024.
Đẩy mạnh cơ cấu lại hoạt động như xem xét tạm dừng các dự án không cấp bách, ưu tiên các dự án đã cam kết với nhà đầu tư…v.v. Đây cũng là điều kiện tất yếu để tăng sức khỏe của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp dễ dàng đáp ứng tốt hơn với các điều kiện của thị trường vốn (tín dụng, phát hành TPDN…).
- Hai là, nâng cao tính công khai, minh bạch trong huy động vốn, sử dụng vốn: Các doanh nghiệp cần có phương án huy động vốn cụ thể, khả thi, trung thực; lựa chọn phương thức, thời điểm huy động vốn phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn minh bạch, khả năng trả nợ…; Xây dựng qui trình, có lộ trình áp dụng xếp hạng tín nhiệm TPDN phù hợp; Tăng cường thu hút vốn đầu tư chiến lược, tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả kinh doanh, uy tín của DN.
Ba là, đa dạng hóa nguồn vốn (tránh chỉ phụ thuộc vào một nguồn tín dụng, quan tâm hơn đến phương thức thuê tài chính, tài trợ chuỗi cung ứng); tăng cường kiểm soát rủi ro, nhất là rủi ro tài chính, lãi suất, tỷ giá (có thể hợp tác với các tổ chức tài chính)…v.v.
Bốn là, doanh nghiệp cũng cần tính cả bài toán dài hơi hơn như chú trọng chuyển đổi số, ứng dụng CNTT trong phát triển, quản lý, vận hành hoạt động doanh nghiệp; đào tạo, phát triển đội ngũ nhân sự chất lượng cao và đẩy mạnh xanh hóa, phát triển bền vững. Đây cũng là xu thế tất yếu hiện nay và trong thời gian tới.
Ngoài ra, đối với các tổ chức tài chính (bên cho vay), chủ động thực hiện Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, Thông tư 06 (sửa đổi Thông tư 39) về hoạt động cho vay của TCTD; rà soát, linh hoạt hơn, phù hợp hơn trong việc áp dụng các điều kiện tín dụng (không hạ chuẩn) như phương án nhận TSBĐ là hàng hóa, hàng tồn kho...; đơn giản hóa quy trình, thủ tục, đẩy mạnh ứng dụng CNTT và chuyển đổi số (vừa là tiết giảm chi phí, vừa giảm thủ tục giấy tờ và phù hợp với xu thế)…
Doanh nghiệp hiện đại nâng cao năng lực cạnh tranh qua kết nối ngân hàng mở |